Đứng ngay ngã ba quan sát một lúc, cuối cùng Lập quyết định men theo con đường đất đi vào. Cách chừng năm trăm thước thì trước mắt Lập hiện ra ngôi nhà ngói ba gian xây theo lối cổ, cất trên nền cao, nổi bật giữa khu vườn trồng nhiều loại hoa mà trong đó chắc là nhiều bông lài, nên hương thơm toả ra tận ngoài ngõ. – Cậu tìm ai? Ai đó hỏi phía sau, Lập quay lại thì thấy một cụ già đang quan sát mình rất kỹ, anh phải lên tiếng giải thích: – Dạ, cháu tìm một người quen, cứ nghĩ là cô ấy ở trong nhà này… Cụ già tắc lưỡi: – Nhà này bỏ hoang từ lâu rồi, có ai ở đâu mà kiếm tìm! – Dạ, cháu không biết… Lập cúi chào cụ già, rồi bước sang ngôi nhà khác. Nhưng con đường có đến hàng trăm ngôi nhà, phần nhiều nhỏ hơn, nhưng hầu như giống nhau, không làm sao tìm ra dấu vết. Anh lại phải dừng chân hỏi thăm một chị tuổi trung niên: – Ở xóm này chị có biết một cô gái ăn mặc theo người thành thị… Lập hỏi chưa hết câu thì chị kia đã nói nhanh: – Có phải cô bận áo dài màu hồng, đi giày cao gót không? Cô ta mới vào trong ngôi nhà hoang của ông hội đồng Thiệp. Có lẽ tính mua nhà đó hay sao mà mấy hôm nay đã thấy có mấy người tới lui… Lập mừng rơn: – Dạ, cám ơn chị! Chạy trở lại ngôi nhà lớn, cổng vẫn khoá chặt, tuy nhiên có hương thơm thoang thoảng. Mà hương thơm này không phải là hương lài từ trong vườn. Hương rất quen thuộc… – Cô ta! Lập nhớ ra chính mùi hương này là của cô gái. Anh cho tay vào túi áo định lấy ra chiếc khăn choàng lụa, nhưng… nó không còn trong đó! Không thể được, lúc nãy chính Lập đã xếp gọn cất kỹ trong túi mà… Còn đang loay hoay tìm thì chợt mắt Lập sáng lên! Chiếc khăn choàng đã rơi nằm trên lối đi bên trong cổng nhà! Đoán chắc cô nàng đang ở trong đó, nhưng làm cách nào để vào được, Lập nghĩ mãi… Cuốt cùng anh định cất tiếng gọi, nhưng một lần nữa nghe giọng của cụ già: – Đã nói với cậu rồi, nhà này bỏ hoang. Lập đưa tay chỉ chiếc khăn choàng: – Có người quen của tôi trong đó, chiếc khăn này là của cô ấy. Ông già vẫn lắc đầu: – Tôi dám nói chắc là không có ai. Tôi ở đối diện nhà này từ nào đến giờ, chưa từng thấy có ai ra vào kể từ ngày ông hội đồng bỏ đi về Sài Gòn sống. Lập vẫn cố cãi: – Nhưng, người ta là người tới xem nhà để mua. Cụ già thấy Lập ngoan cố, ông ta phải nói thẳng: – Cậu không chịu nhìn gì cả. Có tấm bảng lớn treo bên cột nhà đó, cậu đi đi! Bấy giờ Lập mới nhìn kỹ và quả thấy có tấm bảng ghi: Nhà này không bán… Cụ già giải thích thêm: – Tôi trước đây vốn là quản gia của ngôi nhà này. Đến khi ông hội đồng quyết định dọn đi thì tôi cũng ra ngoài ở. Nhà tôi ở đối diện đây, nên tuy không còn làm nữa, nhưng tôi vẫn để mắt dòm ngó. Lập vẫn thắc mắc: – Vậy tại sao chiếc khăn này lại ở bên trong? Cụ già đáp: – Có thể của ai rơi bên ngoài rồi gió thổi bay vào trong đó. Lập muốn cãi nhưng nghĩ lại, anh vội cám ơn cụ già rồi đi nhanh trở ra. Mục đích của Lập là tránh sự theo dõi của ông ta để tìm cách khác tiếp cận ngôi nhà. Chính hành tung bí ẩn của cô gái đó thôi thúc Lập cương quyết hơn. May cho Lập, vòng rào ngôi nhà khá rộng, ngoài cổng chính ở bên hông trái còn có một hẻm nhỏ có thể đưa vào cổng sau. Quả như vậy, phía bên hông còn có một cổng phụ nữa. Nơi đây hoàn toàn khuất nên sau khi nhìn trước sau, Lập nhanh tay đu lên tường và leo vào trong. Leo trèo là nghề của Lập từ nhỏ nên không khó lắm, chỉ nửa phút sau anh chàng đã lọt vào bên trong khu vườn hoang phế. Trời lúc đó cũng tối dần, nên càng thuận tiện cho cuộc đột nhập của Lập. Anh chàng tiếc là không có đèn soi đường, tuy nhiên vốn gan dạ, và quen lần theo bóng tối bằng những chuyến đi soi ếch, bắt cá đêm, nên Lập cũng không khó lắm để đến gần ngôi nhà lớn. Quả thật ngôi nhà quá lớn, đúng là của một tay trọc phú một thời ở xứ này. Ngày xưa nghe nói người làng khi đi ngang qua cửa còn không dám nhìn vào nhà nữa. Phần thì lũ chó dữ năm bảy con sủa nồ như đe doạ thiên hạ, mà đám lâu la trong nhà còn cậy thế chủ gia, hay bắt nạt, hành hung bất cứ ai tò mò dòm ngó. Tất cả cửa nẻo đều đóng kín, duy nhất có một cửa sổ phía sau là mở hé. Có một chút ánh sáng phát ra từ đó. Lập bước tới gần, anh len lén nhìn vào. – Trời ơi! Lập kêu khẽ nhưng suýt nữa đã làm cho người bên trong phát hiện. Trước mặt anh, trong phòng có một bộ xương người treo cổ, thòng từ trên xuống, còn có một người nửa là người sống thì đang quỳ bên dưới. Người quỳ đó chính là cô gái đi xe ngựa! Cô gái đang khóc. Tiếng khóc nhỏ, nhưng cũng đủ cho Lập nghe rõ. Càng lúc tiếng khóc càng rõ hơn và trong âm thanh có từng cơn uất nghẹn. Chứng tỏ tâm trạng cô nàng lúc ấy đau đớn, bi thương lắm. Tự dưng Lập nghe tim mình nhói đau. Anh nhớ lại thái độ vô tư, hồn nhiên của cô nàng lúc trưa và so sánh với hiện tại, nó có sự khác biệt rõ ràng. Chứng tỏ cô ấy chỉ mới về đây là lần đầu, và mới gặp con người còn lại bộ xương khô kia. Vừa lúc đó, có lẽ quá xúc động nên cô gái đang khóc thì gục xuống. Lập quên cả hiểm nguy, anh bung cửa sổ ra, nhón người định đu lên trèo vào trong. Nhưng vừa lúc đó có một bàn tay của ai đặt lên vai Lập kéo lại. Bàn tay thô và lạnh. Họ không đánh, không bóp mạnh, vậy mà chẳng hiểu sao Lập hầu như tê liệt, mềm nhũn ra, rồi không còn biết gì nữa… Lập mở mắt ra và vô cùng ngạc nhiên khi thấy ông cụ ban chiều. Ông ta vẫn giữ bộ mặt lạnh lùng, đưa mắt nhìn Lập và lên tiếng trước: – Cậu vậy là không sao rồi? Quay nhìn một lượt, ông ta nói tiếp: – Cậu không nhận ra sao? Đây là ngôi nhà mà cậu vừa muốn đột nhập. Nhớ lại chuyện trước khi bị ngất. Lập lo lắng: – Cô ấy… sao rồi? Vờ như không biết, ông lão hỏi lại: – Cậu hỏi cô nào? – Cô gái ở trong phòng với bộ xương người! Ông già nhẹ lắc đầu, chép miệng: – Tốt hơn hết là cậu không nên biết những gì không cần thiết. Cậu đâu có liên quan gì đến ngôi nhà này, vậy cớ gì… – Thưa ông… – Lúc nãy nếu tôi tới không kịp thì cậu đã bị nhập thổ mà chết rồi. Lúc ấy cậu đang nằm sấp trên mặt đất ẩm. Lập lúng túng: – Dạ … lúc ấy cháu đang… thì bị ai đó chụp lên vai. Cháu không kịp có phản ứng gì thì đã ngất đi. Ông lão giải thích: – Tôi thỉnh thoảng vẫn sang đây để trông chừng. Lúc đó tôi nghe có tiếng động giống như tiếng chân người chạy, nên tôi đi nhanh vào. Không gặp ai khác ngoài một người nằm dưới đất là cậu. – Vậy còn… cô ấy? – Cô nào? – Rõ ràng con thấy cô ấy quỳ gối và khóc trong phòng cùng với một bộ xương. Ông lão bước tới mở cửa sổ căn phòng ra vừa nói: – Đây chính là gian phòng mà lúc nãy tôi bắt gặp cậu nằm bên ngoài. Cậu xem, có gì đâu… Trong lúc Lập bật dậy quan sát, thì ông tiếp lời: – Tôi thấy cửa sổ phòng này mở nên kéo cậu vào đây. Nhờ có chiếc thang tre ngoài kia nên tôi mới đưa cậu vào được, chớ còn cửa chính thì đã đóng chặt bằng thanh gỗ lớn, không làm sao mà mở ra được. Lập nhìn kỹ, quả nhiên cửa chính của gian phòng được gài chắc từ lâu, chứng tỏ không có người ra vào. Anh lẩm bẩm: – Rõ ràng cháu thấy… Ông lão lại lắc đầu: – Cũng có người từng ảo giác như cậu. Nhà này tuy bỏ hoang từ lâu nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện gì. Lập nhìn kỹ lên rầm nhà, xem có lưu lại dấu vết gì của sợi dây treo cổ không. Anh thất vọng. Ông lão hỏi lại: – Sao cậu tò mò về ngôi nhà này và cô gái nào đó vậy? – Dạ… hồi trưa… Tính là không nói, nhưng ở thế chẳng đặng đừng, nên Lập đành thuật lại: – Con làm nghề đánh xe ngựa, nhà ở bên xóm Bến Cỏ. Hồi sáng này con đang cho xe chạy về nhà thì bất ngờ có một cô lên ngồi trên xe mà con không hay biết. Đến khi quay lại thì cô ấy nói xin đi về cùng xóm với cháu. Nhưng khi đến ngang ngã ba Cây Sung thì tự dưng cô ta biến mất, trong lúc xe con còn đang bon bon chạy! Nghe đến đó, ông cụ cười ngất: – Nghe cậu kể sao giống chuyện Liêu Trai của ông Bồ Tùng Linh quá! Vậy sao cậu lại nghĩ là cô ấy ở đây? Lập lại phải kể chuyện cô gái xuất hiện trước nhà mình, bỏ quên lại chiếc khăn choàng, rồi khiến anh tìm tới đây. Ông lão nhẹ lắc đầu: – Lúc chiều cậu nói có chiếc khăn choàng nằm trong sân nhà này, nhưng hồi nãy tôi mở cửa vào đây mà có thấy gì đâu! Lập vẫn còn hoang mang. Anh muốn leo ra ngoài cửa sổ thì ông già cảnh báo: – Nhà này bỏ hoang nhưng còn một cặp chó rất dữ. Bình thường chúng ngủ yên trong nhà kho, nhưng có động hoặc hơi người lạ thì khó lường dược sự hung hãn của nó. Cậu nên ở lại đây chờ đến sáng, hoặc đi ra cùng với tôi thì tốt hơn. Thấy Lập lưỡng lự, ông nói cương quyết: – Theo tôi thì cậu nên ở lại đây. Gian phòng tuy bỏ lâu không ai ở, nhưng mọi tiện nghi vẫn còn đủ. Nếu cậu thấy đói thì tôi về bên nhà đem cơm qua cho cậu ăn. Lập lắc đầu: – Cám ơn ông, con cần về nhà, ba con đợi. Đích thân ông lão đưa Lập ra bằng cổng trước. Khi ra ngoài rồi ông mới xưng tên: – Cậu kêu tôi là Ba Hưng. Lập từ giã mà cứ ngoái lại nhìn ngôi nhà mãi. Anh không thể nào quên được hình ảnh cô gái ngồi khóc dưới bộ xương khô được. Anh biết chắc là mình không bị ảo giác, nhưng tại sao lúc ở trong phòng thì không thấy dấu vết gì cả? Chẳng lẽ đó là… ma? Mang tâm trạng nặng trĩu đó, Lập về tới nhà lúc nào không hay. Vừa vào tới bên trong thì Lập đã nghe bà cô anh la lớn: – Mày đi đâu cả đêm, bỏ ba mày nằm chết trong đó, vào mà coi! Lập hốt hoảng chạy bay vào phòng của cha. Cửa phòng mở toang, nhưng trên giường không có cha, mà thay vào đó là một… bộ xương khô! – Bộ xương này… Lập nhớ lại bộ xương treo lủng lẳng trong ngôi nhà hoang, anh kêu lên: – Ba đâu rồi? Không thấy bóng dáng cha đâu, Lập hỏi bà cô: – Tại sao thế này? Bà cô nhìn thấy bộ xương khô thì trợn trừng đôi mắt và ngã xuống ngất đi. Lập quýnh lên, vừa đỡ bà cô dậy lo cứu tỉnh lại vừa dõi theo bộ xương trong phòng. Thoang thoảng đâu đó Lập ngửi được hương thơm quen thuộc. – Cô ta? Lập quay tìm mọi nơi trong nhà vì nghĩ là cô gái đang có mặt. Nhưng tuyệt nhiên không thấy gì khác. Đưa bà cô xuống phòng riêng của bà, lát sau bà tỉnh lại và vẫn còn sợ hãi: – Ba…ba mày… sao lại thành ma? Lập chạy trở lên nhà trên, và lần này anh thật sự bàng hoàng khi… bộ xương không còn nằm chỗ cũ! Trên giường bây giờ chỉ có chiếc khăn choàng! – Trời ơi! Nghĩ tới tình huống chẳng lành xảy ra, Lập cuống cuồng mãi mà chưa biết phải làm sao. Anh ôm mặt đứng yên đó hồi lâu… Bỗng ngoài ngõ có người gọi. Lập bước ra thì Tư Thôi, anh ta chỉ về phía chợ bảo: – Chú Hai đi đâu mà chạy như ma đuổi về phía đường Cây Sung, tui kêu quá trời mà chú không thèm nghe! Lập hốt hoảng: – Chạy về hướng đường Cây Sung? Linh tính báo điềm chẳng lành, Lập tức tốc chạy ra khỏi nhà và một lần nữa anh nhầm hướng ngôi nhà ông hội đồng Thiệp. Trước đó hơn nữa giờ, ông Hai Mạnh đã đi thẳng vào nhà đó như vào chính nhà của mình. Đến khi Lập vào theo thì mọi sự đều khác. Nhà hoang vắng, im ắng như tự bao giờ… Lập bước tới gian phòng cũ thì chẳng thấy gì. Chỉ có tiếng vài con dơi bay ra từ một phòng ở hướng tây. Đang định bước ra thì chợt nhìn thấy một đôi dép đàn ông dính đầy bùn đất, Lập hốt hoảng: – Ba! Đó là đôi dép của ông Hai Mạnh thường mang mỗi ngày. Điều đó chứng tỏ ông đã tới đây! – Ba ơi! Quên cả giữ ý, Lập gọi to đến mấy lần. Nhiều con dơi lại bay ra gây những tiếng động bất thường, như báo có điều gì đó đang xảy ra. Vốn tính gan lì, lại đang sốt ruột cho mạng sống của cha, Lập phóng vội ra cửa sổ, hướng anh tìm không khó để tới căn phòng đó. Đêm qua Lập thấy cửa sổ đóng, nhưng giờ đây một cánh đang mở hé. Ghé sát mặt và nhìn vào trong, trước mắt Lập là cha anh đang ôm một chiếc đầu lâu, vừa khóc không thành tiếng, nhưng qua đôi vai run lên từng hồi, đủ thấy là ông đang bị kích động dữ dội! – Ba! Tiếng gọi của Lập khiến có thêm vài con dơi nữa bay ra, riêng ông Mạnh thì hầu như không nghe thấy gì, vẫn tiếp tục nấc lên từng hồi. Bỗng Lập sững sờ khi nhìn thấy trên bàn thờ có bức ảnh chân dung, anh kêu lên: – Má! Bức ảnh này giống hệt như ảnh thờ ở nhà Lập. – Ba ơi, chuyện này là sao? Lúc này ông Hai Mạnh mới ngước lên. Nhưng ánh mắt của ông như đờ đẫn, không nhìn thấy gì trước mắt. Lập phải gọi lần nữa lớn hơn: – Ba, con là Lập nè! Ông Hai Mạnh để rơi chiếc đầu lâu xuống sàn nhà và ông hốt hoảng nhào theo chụp lại. Rồi thật bất ngờ, ông quay sang con trai quát lớn: – Tránh ra! Đụng tới người này tao sẽ giết mày! Biết cha đang mê sảng, nên Lập vội im lặng tránh sang một bên. Ông Mạnh nhặt chiếc sọ lên, và một cách trịnh trọng ông đặt nó trở lại bàn thờ. Ông đứng im như pho tượng, hai tay chắp lại, miệng lâm râm những gì mà Lập chỉ đứng cách chưa đầy ba thước cũng không nghe được. – Tại sao người ta thờ má ở đây? Vậy mà lâu nay ba chỉ nói là má mất trong âm thầm lặng lẽ, không một thân nhân nào bên ngoại tới viếng lần cuối… Lập không biết phải làm gì cho đúng lúc này. Anh rất lo cho cha mình, trông dáng đứng và đôi chân run run của ông chứng tỏ ông không khoẻ, có nguy cơ ngã nhào bất cứ lúc nào. Bệnh đột quỵ bất thần cũng là căn bệnh lâu nay của cha… Đột nhiên, bên tai Lập vang lên một giọng ai đó khóc thật thê lương! Tiếng khóc không phải của một người bình thường! Thoạt nghe Lập cứ ngỡ nó ở đâu bên ngoài, nhưng nghe kỹ thì rõ ràng âm thanh phát ra từ bàn thờ có bức ảnh của mẹ! Lập run lên. Đây là lần đầu tiên anh nghe được tiếng khóc của mẹ, bởi khi bà mất thì Lập mới mười tuổi, nào biết gì… Cha Lập lại khóc theo. Hai âm thanh hoà vào nhau, tạo thành một thứ tiếng nghe đến rợn người! Cũng may đây là giữa ngôi nhà hoang nên chắc người bên ngoài không ai nghe thấy. Và quả đúng như sự lo ngại của Lập, ông Hai Mạnh chỉ đứng được vài chục giây, rồi đột nhiên ngã sóng soài trên nền gạch. – Ba! Bất kể, Lập lao qua cửa sổ nhào tới chụp lấy thân thể cha mình. Đột nhiên có một vật từ trên bàn thờ rơi xuống trúng ngay vào ngực ông Mạnh. Lập nhìn thấy bức ảnh bán thân của mẹ thì hốt hoảng: – Ba! Ông Mạnh đưa đôi bàn tay gầy gò choàng qua ôm cái khung ảnh, giọng ông thều thào: – Bà… như vậy bà đã… tha cho tôi rồi… Ông nở nụ cười héo hắt trên môi rồi đưa mắt nhìn lên Lập. Hình như ông muốn nói gì đó mà không nói được… – Ba! Không còn kịp nữa rồi. Ông Hai Mạnh đã ngừng thở… Đám tang ông Hai Mạnh vừa xong thì đột nhiên bà cô của Lập lên cơn đồng bóng rất lạ. Lâu nay bà vốn có tính nghễnh ngãng nên lúc đầu Lập không để ý những lời nói kỳ lạ của bà, nhưng sau đó vào lúc nửa đêm, bà bỗng khóc ré lên, rồi chỉ vào mặt Lập mà nói: – Thằng con bất hiếu. Mày có biết là tại vì mày mà ba mày phải mất mạng không? Lập ngơ ngác: – Cô! Sao cô nói vậy? Bà hầu như đối với Lập là người xa lạ: – Mày tránh xa tao ra! Chính mày đã đưa cha mày tới hang ổ của tụi nó. Nơi mà từ lâu nay cha mày đã tránh được. Đồ con bất hiếu! – Kìa, cô! Lập vừa bước tới thì bất thần bị một sức mạnh vô hình nào đó đẩy ngã ngửa. Bà cô thì vẫn lớn tiếng quát: – Đi tìm nó mà báo thù cho cha mày! Bà quát xong thì tự dưng bật ra, người run lên như bị kinh phong. Lập phải gọi mấy lượt bà mới tỉnh lại. Lúc này lại hoàn toàn khác với lúc nãy, bà nhìn Lập có vẻ thân thiện hơn: – Cô đang làm gì đây con? Từ lâu, bà cô họ chưa bao giờ nói với Lập hay người trong nhà được một câu ra đầu ra đuôi và đầy tình cảm như vậy. Đó là chưa nói nó trái ngược với những câu khó nghe cách mấy phút trước. Phải chăng sau cơn co giật vừa rồi đã khiến bà thay đổi? Lập muốn hỏi nhưng chưa kịp thì bà cô đã lên tiếng: – Hồi nãy chút xíu nữa thì ta đã bị nó hại. Cũng nhờ ba con tới kịp nên cô mới thoát. Tội nghiệp ba con… Lập trố mắt: – Cô vừa nói gì? Ba con… – Ba con còn ở đây. Đang ở trong phòng kia kìa! Bà nói y như thật khiến cho Lập không tin không được. Anh chạy lên nhà. Nhưng chưa bước vào phòng thì anh đã khựng lại trước trang thờ mới lập. Bức ảnh thờ của ba anh đang bốc cháy! Hốt hoảng, Lập chạy tới ra sức dập tắt ngọn lửa. Tayanh vừa chạm vào cạnh tủ thờ thì phải rụt ngay lại bởi bị nóng như thọc vào lửa, dù nơi đó không hề bị cháy! Chỉ trong nháy mắt, bức ảnh chân dung của ông Hai Mạnh đã bị cháy thành tro. Cố gắng lắm Lập mới dập tắt được ngọn lửa. Tuy nhiên, hầu như tất cả những gì có trên bàn thờ đều bị huỷ hoại. Không quan tâm tới điều đó lắm, Lập lại chạy thẳng vào phòng riêng của cha. Lúc này không phải bộ xương khô như lần trước, mà nằm trên giường là một cái tráp bằng gỗ được đặt ngay trên gối nằm. Chiếc tráp này chưa bao giờ Lập nhìn thấy, nên anh hơi lưỡng lự trước khi mở nắp ra. Bên trong chỉ duy nhất một quyển tập học trò khá dày, đã cũ, bìa sờn bốn góc, chứng tỏ đã được sử dụng nhiều năm. Dòng chữ đập ngay vào mắt Lập. “Nỗi lòng Hai Mạnh”. Việc cha mình là người hay chữ, từng là một công chức thời trai trẻ thì Lập biết, nhưng việc ông viết nhật ký hay hồi ký là điều Lập không bao giờ ngờ tới. Dẫu vậy, Lập vẫn cẩn thận giở từng trang và đọc rất kỹ. Lần đầu tiên, Lập như sống trong tâm trạng của một người khác. Những điều riêng tư của cha mình, anh tưởng chừng như là của một ai đó…...